齊物論 | Tề vật luận (I) |
1.
南郭子綦隱机而坐,仰天而噓,荅焉似喪其耦。顏成子游立侍乎前,曰:「何居乎?形固可使如槁木,而心固可使如死灰乎?今之隱机者,非昔之隱机者也?」 2. 子綦曰:「偃,不亦善乎,而問之也!今者吾喪我,汝知之乎?汝聞人籟而未聞地籟,汝聞地籟而未聞天籟夫!」 3. 子游曰:「敢問其方。」 4. 子綦曰:「夫大塊噫氣,其名為風。是唯無作,作則萬竅怒呺。而獨不聞之翏翏乎?山陵之畏隹,大木百圍之竅穴,似鼻、似口、似耳、似枅、似圈、似臼、似洼者、似污者;激者、謞者、叱者、吸者、叫者、譹者、宎者、咬者,前者唱于而隨者唱喁。泠風則小和,飄風則大和,厲風濟則眾竅為虛。而獨不見之調調之刁刁乎?」 5. 子游曰:「地籟則眾竅是已,人籟則比竹是已,敢問天籟。」 6. 子綦曰:「夫天籟者,吹萬不同,而使其自己也,咸其自取,怒者其誰邪!」 |
1.
Nam Quách Tử Kì (1) tựa kỉ ngồi ngửa lên trời hà hơi, thờ thẫn (2) như mất lứa đôi (3)... Nhan Thành Tử Du đứng hầu ở trước mặt thưa: — Sao vậy? Hình hài lại có thể khiến như gỗ khô, lòng lại có thể khiến như tro nguội được sao? Chuyện (4) tựa kỉ ngày nay, không phải là chuyện tựa kỉ ngày trước... 2. Tử Kì nói: — Yển! Mi hỏi điều đó cũng lạ hay sao? Hiện nay "ta mất ta", mi biết thế chăng? Mi nghe biết "sáo người" mà chưa nghe biết "sáo đất"? Mi nghe biết "sáo đất" mà chưa nghe biết "sáo trời" chăng? 3. Tử Du: — Dám hỏi loại nó. 4. Tử Kì đáp: — Kìa "khối lớn" bật ở hơi, tên nó là gió. Nó không nổi thì chớ, nổi thì muôn lỗ trống đều gào thét. Riêng mi chẳng nghe nó ào ào đó sao? Những chỗ lũng lớn của núi, rừng; những hang, bọng của các cây lớn hàng trăm vòng; như mũi; như miệng; như tai; như đấu, như chén; như thưng; như mà; như vũng; nào tức; nào gào, nào quát, nào hút, nào kêu, nào quét, nào réo, nào xưa... Cái trước kêu "vu vu"! Rồi cái theo kêu "o o"! Gió mát thì tiếng họa nhỏ... Gió táp thì tiếng họa to... Gió mạnh qua rồi thì các lỗ đều trống rỗng... Riêng mi không thấy nó rì rào, nó thấp thao đó sao? 5. Tử Du: — Sáo đất thì là các lỗ trống. Sáo người thì là các ống trúc. Dám hỏi sáo trời? 6. Tử Kì: — Kìa gió thổi nên muôn tiếng không giống nhau. Nhưng mà khiến cho nó tự thôi đi hoặc nó tự gào lên, ấy là ai? |
齊物論 | Tề vật luận (II) |
1.
大知閑閑,小知閒閒;大言炎炎,小言詹詹。其寐也魂交,其覺也形開。與接為搆,日以心鬬。縵者,窖者,密者。小恐惴惴,大恐縵縵。其發若機栝,其司是非之謂也;其留如詛盟,其守勝之謂也;其殺若秋冬,以言其日消也;其溺之所為之,不可使復之也;其厭也如緘,以言其老洫也;近死之心,莫使復陽也。喜怒哀樂,慮嘆變慹,姚佚啟態;樂出虛,蒸成菌。日夜相代乎前,而莫知其所萌。已乎,已乎!旦暮得此,其所由以生乎! 2. 非彼無我,非我無所取。是亦近矣,而不知其所為使。若有真宰,而特不得其眹。可行已信,而不見其形,有情而無形。 3. 百骸、九竅、六藏,賅而存焉,吾誰與為親?汝皆說之乎?其有私焉?如是皆有為臣妾乎?其臣妾不足以相治乎?其遞相為君臣乎?其有真君存焉?如求得其情與不得,無益損乎其真。 4. 一受其成形,不亡以待盡。與物相刃相靡,其行盡如馳,而莫之能止,不亦悲乎!終身役役而不見其成功,苶然疲役而不知其所歸,可不哀邪!人謂之不死,奚益!其形化,其心與之然,可不謂大哀乎!人之生也,固若是芒乎?其我獨芒,而人亦有不芒者乎? |
1.
Trí lớn nhàn nhàn! Trí nhỏ lan man (5)! Lời lớn ầm ầm! Lời nhỏ lâm râm (6)! Khi ngủ thì hồn giao nhau! Khi thức thì hình mở ra! Tiếp nhau, gây nhau, hằng ngày đem lòng ganh nhau: nào chẫm rãi, nào sâu sắc, nào kín đáo... Sợ nhỏ thì bồn chồn. Sợ lớn thì run run. Vung ra như máy lẫy, khi khư khư về phải, trái thì thế. Giữ lại như thề nguyền, khi giữ phần thắng thì thế. Nó tàn như thu, đông: ấy là nói nó ngày hao mòn! Cái đó là do nó đắm đuối làm ra, không thể làm sao cho nó trở lại được. Nó nén như giàm buộc: ấy là nói nó già đọng. Tấm lòng gần chết, không ai làm cho lại nóng nữa. Mừng, giận, thương, vui, lo, than thở, sậm sột, ngông càn, cảnh vẻ, thích ra từ khoảng không; hun bốc lên như nấm; ngày đêm thay nhau ở trước mặt, mà không ai biết nó nẩy nở ở đâu ra? Ối thôi! Ối thôi! sớm chiều ai biết được cái đó từ đâu mà sinh ra? 2. Phi có nó, không có ta. Phi có ta, không gì đáng lấy. Thế cũng gần phải rồi, nhưng không biết ai xui khiến vậy? Chừng như có bậc chúa tể thật, nhưng chỉ không xét được triệu trẫm của nó. Đã tin thì có thể làm. Nhưng không thấy hình nó. Nó có tính mà không có hình. 3. Trăm xương, chín khiếu, sáu tạng, để cả đó, ta thân với cái nào? Cái nào mi cũng thích sao? Hay mi có thích riêng? Như vậy, chúng đều là tôi tớ cả sao? Bọn tôi tớ ấy không đủ sức trị nhau chăng? Hay làm vua, tôi lẫn cho nhau? Ở trong đó còn có cái thật là vua chúa? Tìm xét được tình nó hay không được nữa, cũng không ích lợi, hay thiệt hại gì cho cái "thật" đó. 4. Nhất nhất đều nhận lấy cái hình nó gây ra không bỏ mất, để đợi ngày hết. Cùng vật ngoài đâm nhau, chèn nhau, làm ra đều như phóng ngựa, không ai ngăn được nó cả, chẳng cũng buồn sao? Suốt đời xong xóc mà không thấy mình nên công: mỏi mệt lao lướt mà không biết mình về đâu: có thể không xót xa sao? Người ta bảo thế là: không chết có ích gì? Hình nó hóa đi, tâm nó cũng thế vậy! Có thể không cho là thảm thiết sao? Đời con người ta vốn mờ mịt như thế sao? Hay riêng ta mờ mịt, mà người khác cũng có kẻ không mờ mịt sao? |
齊物論 | Tề vật luận (III) |
1. 夫隨其成心而師之,誰獨且無師乎?奚必知代而心自取者有之?愚者與有焉。未成乎心而有是非,是今日適越而昔至也。是以無有為有。無有為有,雖有神禹,且不能知,吾獨且奈何哉! 2. 夫言非吹也,言者有言,其所言者特未定也。果有言邪?其未嘗有言邪?其以為異於鷇音,亦有辯乎?其無辯乎? 3. 道惡乎隱而有真偽?言惡乎隱而有是非?道惡乎往而不存?言惡乎存而不可?道隱於小成,言隱於榮華。故有儒墨之是非,以是其所非而非其所是。欲是其所非而非其所是,則莫若以明。 4. 物無非彼,物無非是。自彼則不見,自知則知之。故曰彼出於是,是亦因彼。彼是方生之說也,雖然,方生方死,方死方生;方可方不可,方不可方可;因是因非,因非因是。是以聖人不由,而照之於天,亦因是也。 5. 是亦彼也,彼亦是也。彼亦一是非,此亦一是非,果且有彼是乎哉?果且無彼是乎哉?彼是莫得其偶,謂之道樞。樞始得其環中,以應無窮。是亦一無窮,非亦一無窮也。故曰莫若以明。 6. 以指喻指之非指,不若以非指喻指之非指也;以馬喻馬之非馬,不若以非馬喻馬之非馬也。天地一指也,萬物一馬也。 | 1.
Nếu cứ theo tấm lòng có thành kiến của mình mà lấy nó làm thầy, thì riêng ai là chẳng có thầy? Có cứ gì kẻ biết chuyện thay đổi mà tự lòng nhân lấy là có nó, kẻ ngu âu cũng có. Chưa có thành kiến ở trong lòng mà có phải, trái, thì ra "hôm nay sang Việt mà đến từ hôm trước!" Như vậy là lấy không làm có, thì dù cụ Thần Vũ (7) còn không biết nổi, riêng ta có làm thế nào được. 2. Kìa nói không phải là gió thổi. Kẻ nói có nó, điều nó nói chỉ có là chưa nhất định. Quả có nói chăng, hay nó chưa từng có nói chăng? Nó cho là khác với tiếng chim học nói (8), thật có phân biệt chăng? Hay không phân biệt chăng? 3. Đạo lấp vào đâu mà có mà có thật với giả? Nói lấp vì đâu mà có phải với trái? Đạo đi đến đâu mà chẳng còn? Nói còn ở đâu mà chẳng được? Đạo lấp vì sự thành nhỏ. Nói lấp vì vẻ văn hoa. Cho nên có cái phải, cái trái của bọn Nho, bọn Mặc, để khen cái bên kia chê, mà chê cái bên kia khen! Muốn khen cái bên kia chê, mà chê cái bên kia khen, thì không gì bằng "lấy ánh sáng". 4. Vật đều là "nó". Vật đều là phải. Tự "nó" thì không thấy. Tự biết thì biết điều đó. Cho nên nói: "Nó ra từ lẽ phải, lẽ phải cũng là nhân nó". "Nó là phải" tức là thuyết "vừa sống". Tuy nhiên vừa sống vừa chết, vừa chết vừa sống, vừa được vừa không được, vừa không được vừa được; nhân phải nhân trái, nhân trái nhân phải. Thế nên bậc thánh nhân không theo mà soi nó với thiên nhiên, cũng là nhân phải vậy. 5. Phải là nó. Nó là phải. Nó cũng có một lẽ phải-trái. Ta đây cũng có lẽ phải-trái. Vậy quả có cái phải của nó chăng? Quả không có cái phải của nó chăng? Cái phải của nó không tìm được lứa đôi, gọi nó là "cốt đạo" (9). Bắt đất từ cái cốt, ta được phép xoay chung quanh nó để đối phó lẽ vô cùng. Phải cũng là một lẽ vô cùng. Trái cũng là một lẽ vô cùng. Cho nên nói rằng không gì bằng lấy ánh sáng. 6. Lấy ngón tay mà thí dụ cho rõ ngón tay không phải là ngón tay, không bằng lấy cái không phải ngón tay để thí dụ cho rõ ngón tay không phải ngón tay. Lấy con ngựa thí dụ con ngựa không phải con ngựa, không bằng lấy cái không phải con ngựa thí dụ con ngựa không phải con ngựa. Trời, đất là một ngón tay. Muôn vật là một con ngựa. |
齊物論 | Tề vật luận (IV) |
1.
Được về lẽ được. Không được về lẽ không được. Đạo làm điều đó mà nên. Vật theo lẽ đó mà phải. Phải vì đâu? Phải vì lẽ phải. Không phải vì đâu? Không phải vì lẽ không phải. Vật vốn có lẽ phải. Vật vốn có lẽ được. Không vật gì là không phải. Không vật gì là không được. Cho nên vì thế mà so xà với cột, người xấu với Tây Thi, dọc ngang, trái, khác, đạo thông là một! Nó phân ra là nó thành.Nó thành là nó hỏng. Phàm vật không có gì là thành với hỏng, lại thông mà là một. 2. Duy có kẻ đạt biết thông là một. Nghĩa là không dùng cái phải mà gửi vào chỗ thường. {...}(10). Nhân phải thế thôi, đạo không biết tại sao lại thế, cái đó gọi là đạo. 3. Mệt thần minh vì chấp nhất. mà không biết nó như nhau. Cái đó gọi là "sớm ba"... "Sớm ba" là cái gì? Thưa: — Lão nuôi khỉ chia củ, nói: "Sớm cho ba rồi chiều cho bốn." Các khỉ đều giận. Nói: "Thế thì sớm cho bốn, rồi chiều cho ba." Các khỉ đều bằng lòng. Danh, thực, chưa thiếu hụt, mà gây ra mừng giận, cũng là nhân phải vậy! Vì thế bậc thánh nhân hòa nó bằng phải, trái mà so bằng "cân trời". Ấy thế gọi là "đi đôi". |
齊物論 | Tề vật luận (V) |
Người đời xưa, trí của họ đã tới được chỗ rất mực. Đến đâu là rất mực? Có người cho rằng bắt đầu chưa hề có vật gì, thế là rất mực rồi? Thế là hết rồi, không thể hơn nữa được! Thứ nữa cho là có vật rồi, nhưng bắt đầu chưa từng có đối phương. Thứ nữa cho là có đối phương, nhưng bắt đầu chưa từng có phải, trái. Phải, trái mà rõ rệt ấy đạo sở dĩ hỏng vì thế. Đạo vì thế hỏng, ham mê vì thế gây nên. Thật có hỏng cùng nên chăng? Thật không có hỏng cùng nên chăng? Có nên và hỏng, cho nên ông Chiêu (11) gảy đàn. Không nên và hỏng, cho nên ông Chiêu không gảy đàn. Chiêu Văn thì gảy đàn; Sư Khoáng (12) thì cầm nhịp; thầy Huệ (13) thì cưỡi cây ngô; trí của ba người, cơ hồ đều là thứ giỏi cả, cho nên tuổi già vẫn mang nó. Duy Kì ham mê nó, muốn tỏ rõ nó với bên kia, không phải cái mình đáng tỏ rõ mà tỏ rõ nó, cho nên suốt đời mờ tối vì chuyện "trắng, dắn" (14). Mà thầy lại tìm những mành mối của văn chương, suốt đời không nên việc gì? Như thế mà có thể gọi là nên sao? Dù ta đây cũng là có nên. Như thế mà không thể gọi là nên sao? Vật cùng ta đều không nên gì cả. Vậy nên ánh sáng mập mờ, là thứ bậc thánh nhân mong mỏi. Không dùng cái phải mà gửi nó vào chỗ thường. Thế gọi là lấy ánh sáng.
|
齊物論 | Tề vật luận (VI) |
1.
今且有言於此,不知其與是類乎?其與是不類乎?類與不類,相與為類,則與彼無以異矣。雖然,請嘗言之。有始也者,有未始有始也者,有未始有夫未始有始也者。有有也者,有無也者,有未始有無也者,有未始有夫未始有無也者。俄而有無矣,而未知有無之果孰有孰无也。今我則已有謂矣,而未知吾所謂之其果有謂乎?其果无謂乎? 2. 天下莫大於秋毫之末,而大山為小;莫壽於殤子,而彭祖為夭。天地與我並生,而萬物與我為一。既已為一矣,且得有言乎?既已謂之一矣,且得無言乎?一與言為二,二與一為三。自此以往,巧曆不能得,而況其凡乎!故自無適有以至於三,而況自有適有乎!無適焉,因是已。 3. 夫道未始有封,言未始有常,為是而有畛也。請言其畛:有左、有右、有倫、有義、有分、有辯、有競、有爭,此之謂八德。六合之外,聖人存而不論;六合之內,聖人論而不議。春秋經世先王之志,聖人議而不辯。故分也者,有不分也;辯也者,有不辯也。曰:何也?聖人懷之,眾人辯之以相示也。故曰辯也者,有不見也。 4. 夫大道不稱,大辯不言,大仁不仁,大廉不嗛,大勇不忮。道昭而不道,言辯而不及,仁常而不周,廉清而不信,勇忮而不成。五者無棄而幾向方矣。故知止其所不知,至矣。孰知不言之辯,不道之道?若有能知,此之謂天府。注焉而不滿,酌焉而不竭,而不知其所由來,此之謂葆光。 |
1.
Nay ví như có lời nói ở đây, không biết nó giống với đấy chăng, hay không giống với đấy chăng? Giống và không giống, cùng làm một giống với nhau, thì không có gì là khác với bên kia nữa. Tuy vậy, xin nói về chuyện ấy. Có bắt đầu. Có cái chưa hề có bắt đầu. Có cái có. Có cái không. Có cái chưa hề có cái không. Có cái chưa hề có cái chưa hề có cái không. Thoắt mà có, không rồi, nhưng chưa biết có, không, thì quả cái gì là có, cái gì là không? Nay ta thì đã có nói rồi, nhưng chưa biết điều ta nói là quả có nói chăng? Là quả không nói chăng? 2. Dưới trời, không gì lớn hơn ngón chiếc lông mùa thu mà núi Thái là nhỏ; không gì thọ hơn đứa trẻ yểu mà Bành Tổ là chết non! Trời, đất cùng ta sinh mà muôn vật cùng ta là một. Đã là một, lại có nói được sao? Đã cho là một, lại không nói được sao? Một với nói là hai (15). Hai với một là ba. Từ đó mà đi, người giỏi lịch cũng không tính nổi, huống chi là kẻ thường. Cho nên từ chỗ không sang chỗ có, còn đến số ba, huống chi là chỗ có có sang chỗ có? Không sang đâu cả, nhân phải mà thôi! 3. Thực ra đạo chưa hề có đối phương, nói chưa hề có thường. Vì phải mà có khu vực. Xin nói khu vực của nó: có tả, có hữu, có bậc, có nghĩa, có chia, có biệt, có cạnh, có tranh. Cái đó gọi là tám đức. Ngoài sáu hợp (*2), thánh nhân để đó mà không nói. Trong sáu hợp, thánh nhân nói đến mà không bàn. Sách Xuân Thu vì đời, chí của các vương thuở trước; thánh nhân bàn mà không biện bác. Cho nên phân tức là có chỗ không phân; biện tức là có chỗ không biện. Sao vậy? Thánh nhân mang bọc nó. Chúng nhân biện bác nó để bảo nhau. Cho nên nói rằng: biện bác là có chỗ không thấy. 4. Kìa, đạo lớn không xưng; biện lớn không nói, nhân lớn không nhân; liêm lớn không nhường, dũng lớn không khoe. Đạo rõ mà không chỉ; nói biện mà không tới; nhân thường mà không nên (16); liêm thanh mà không đúng; dũng khỏe mà không thành; năm cái đó tròn mà cơ hồ quay sang vuông. Cho nên biết dừng ở chỗ mình không biết là rất mực rồi. Ai biết được cách biện không cần nói, nền đạo không cần chỉ. Nếu có kẻ biết được, hạng ấy gọi là "kho trời". Rót vào mà không đầy; rót ra mà không kiệt, mà không biết nó do đâu đến. Thế gọi là "giấu ánh sáng". |
齊物論 | Tề vật luận (VII) |
1.
Cho nên đời xưa Nghiêu hỏi Thuấn rằng: — Ta muốn đánh Tông, Khoái, Tư Ngao. Ngoảnh mặt sang Nam (17) mà thấy không khoan khoái. Cớ đó là vì sao? 2. Thuấn đáp: — Như ba gã đó, cũng như sống ở trong đám cỏ bồng, rau ngải. Sao nhà vua lại không khoan khoái? Xưa kia mười mặt trời đều mọc, muôn vật đều được soi sáng. Huống chi là thứ đạo đức còn hơn là mặt trời. |
齊物論 | Tề vật luận (VIII) |
1.
齧缺問乎王倪曰:「子知物之所同是乎?」 2. 曰:「吾惡乎知之!」 3. 「子知子之所不知邪?」 4. 曰:「吾惡乎知之!」 5. 「然則物无知邪?」 6. 曰:「吾惡乎知之!雖然,嘗試言之。庸詎知吾所謂知之非不知邪?庸詎知吾所謂不知之非知邪?且吾嘗試問乎汝:民濕寢則腰疾偏死,鰌然乎哉?木處則惴慄恂懼,猨猴然乎哉?三者孰知正處?民食芻豢,麋鹿食薦,蝍蛆甘帶,鴟鴉嗜鼠,四者孰知正味?猨猵狙以為雌,麋與鹿交,鰌與魚游。毛嬙、西施,人之所美也;魚見之深入,鳥見之高飛,麋鹿見之決驟,四者孰知天下之正色哉?自我觀之,仁義之端,是非之塗,樊然殽亂,吾惡能知其辯!」 7. 齧缺曰:「子不知利害,則至人固不知利害乎?」 8. 王倪曰:「至人神矣!大澤焚而不能熱,河漢沍而不能寒,疾雷破山而不能傷,飄風振海而不能驚。若然者,乘雲氣,騎日月,而遊乎四海之外,死生無變於己,而況利害之端乎!」 |
1.
Khiết Khuyết hỏi Vương Nghê: — Thầy biết chỗ cùng phải của các vật chăng? 2. Đáp: — Ta biết đâu cái đó! 3. — Thầy biết cái mà thầy không biết chăng? 4. — Ta biết đâu cái đó! 5. — Vậy thì các vật, không biết gì chăng? 6. — Ta biết đâu cái đó! Tuy vậy, hãy thử nói chuyện đó. Nào biết cái ta gọi là biết lại không phải là không biết sao? Nào biết cái ta gọi là không biết lại không phải là không biết sao? Vả lại ta đã từng hỏi mi: con người nằm ướt thì đau lưng, chết một bên; loài nhái (18) có thế chăng? Ở trên cây thì sậm sột, sợ hãi: loài khỉ, vượn có thế chăng? Ba loài ấy, ai biết chỗ nào là chính? Con người ăn cỗ bàn (19); hươu nai ăn cỏ; rết lấy rắn làm ngon; vọ, ác nghiện chuột! Bốn loài ấy, ai biết vị ăn nào là chính? Vượn lấy khỉ làm con nái. Hươu giao với nai. Nhái (18) chơi với cá. Mao Tường, Lệ Cơ (20), người ta cho là đẹp. Cá thấy họ, lặn sâu. Chim thấy họ, bay cao (*3). Hươu nai thấy họ, lồng chạy. Bốn loài ấy, ai biết sắc đẹp nào là chính ở đời? Tự ta coi nó, thì đầu mối của nhân, nghĩa, đường lối của phải, trái, lộn xộn rối tung, ta biết đâu mà phân biệt được nó! 7. Khiết khuyết nói: — Thầy không biết lợi hại, thì bậc chí nhân vốn không biết lợi hại sao? 8. Vương Nghê: — Bậc chí nhân thì thần rồi: chầm lớn cháy mà không thể làm cho nóng; sông Hà sông Hán đóng băng mà không thể làm cho rét; sét dữ vỡ núi, gió lộng bể mà không thể làm cho sợ... Kẻ như thế thì ngự khí mây, cưỡi mặt trời, mặt trăng mà chơi ngoài bốn bể; chết, sống không làm cho mình biến đổi, mà huống chi là đầu mối của lợi hại. |
齊物論 | Tề vật luận (IX) |
1.
瞿鵲子問乎長梧子曰:「吾聞諸夫子:『聖人不從事於務,不就利,不違害,不喜求,不緣道;無謂有謂,有謂無謂,而遊乎塵垢之外。』夫子以為孟浪之言,而我以為妙道之行也。吾子以為奚若?」 2. 長梧子曰:「是黃帝之所聽熒也,而丘也何足以知之!且汝亦大早計,見卵而求時夜,見彈而求鴞炙。予嘗為女妄言之,女以妄聽之奚?旁日月,挾宇宙,為其脗合,置其滑涽,以隸相尊。眾人役役,聖人愚芚,參萬歲而一成純。萬物盡然,而以是相蘊。 3. 予惡乎知說生之非惑邪?予惡乎知惡死之非弱喪而不知歸者邪?麗之姬,艾封人之子也,晉國之始得之也,涕泣沾襟;及其至於王所,與王同筐床,食芻豢,而後悔其泣也。予惡乎知夫死者不悔其始之蘄生乎? 4. 夢飲酒者,旦而哭泣;夢哭泣者,旦而田獵。方其夢也,不知其夢也。夢之中又占其夢焉,覺而後知其夢也。且有大覺而後知此其大夢也,而愚者自以為覺,竊竊然知之。君乎,牧乎,固哉!丘也與女,皆夢也;予謂女夢,亦夢也。是其言也,其名為弔詭。萬世之後而一遇大聖,知其解者,是旦暮遇之也。 5. 既使我與若辯矣,若勝我,我不若勝,若果是也?我果非也邪?我勝若,若不吾勝,我果是也?而果非也邪?其或是也,其或非也邪?其俱是也,其俱非也邪?我與若不能相知也,則人固受其黮闇,吾誰使正之?使同乎若者正之,既與若同矣,惡能正之?使同乎我者正之,既同乎我矣,惡能正之?使異乎我與若者正之,既異乎我與若矣,惡能正之?使同乎我與若者正之,既同乎我與若矣,惡能正之?然則我與若與人俱不能相知也,而待彼也邪? 6. 化聲之相待,若其不相待,和之以天倪,因之以曼衍,所以窮年也。何謂和之以天倪?曰:是不是,然不然。是若果是也,則是之異乎不是也,亦無辯;然若果然也,則然之異乎不然也亦無辯。忘年忘義,振於無竟,故寓諸無竟。」 |
1.
Thầy Cồ Tước (21) hỏi thầy Trường Ngô: — Tôi nghe ở ông: "Thánh nhân không theo đuổi về việc đời; không tới lợi, không lánh hại; không thích cầu cạnh; không cốt theo đạo; không nói mà có nói; có nói mà không nói; chơi ở bên ngoài vẩn bụi." Thầy tôi cho là những lời viển vông. Mà tôi thì cho thế là làm được đạo diệu. Ông cho là thế nào? 2. Thầy Trường Ngô đáp: — Đó là điều Hoàng đế nghe mà còn ngờ. Ông Khâu đủ đâu để biết điều đó. Vả lại nhà ngươi cũng tính sớm quá: Thấy trứng (22) đã tìm ngày, đêm! Thấy đạn đã tìm chả chim! Ta từng nói xằng chuyện đó cho nhà ngươi. Nhà ngươi cũng nghe xằng chuyện đó chơi! Làm thế nào mà cắp được vũ trụ, đứng bên được mặt trăng, mặt trời? Nó hợp khít thì nhận lấy. Nó mập mờ, thì để đấy. Vì tùy thuộc mà tôn nhau lần lần. Mọi người thì xong xóc; Thánh nhân thì ngu đần! Gồm muôn tuổi mà hợp nhất cho thành thuần! Muôn vật đều phải hết, mà lấy thế bao bọc nhau. 3. Ta biết đâu ham sống lại chẳng phải là mê hoặc? Ta biết đâu ghét chết là chẳng phải là kẻ yếu đuối mà không biết đường về? Nàng Lệ Cơ, con của Ngải Phong Nhân. Khi nước Tấn mới cưới được nàng, nàng khóc nước mắt ướt cả áo. Kịp khi nàng đến chỗ nhà vua, cùng nhà vua chung chiếu, giường, ăn cao lương, rồi đó hối lại lúc nàng khóc! Ta biết đâu kẻ chết lại không hối mình lúc trước đã tiếc đời? 4. Kẻ chiêm bao thấy uống rượu, sớm ra mà khóc lóc. Kẻ chiêm bao thấy khóc lóc, sớm ra mà săn bắn. Đương lúc nó chiêm bao, không biết mình chiêm bao, lại đoán coi cái chiêm bao của mình. Thức rồi mới biết mình chiêm bao. Lại có khi thức lớn rồi mới biết đó là giấc chiêm bao lớn! Nhưng kẻ ngu thì tự lấy mình làm thức, len lén (23) biết chuyện đó. Nào vua chăng? Nào kẻ chăn vật chăng? Gàn thay! Ông Khâu với nhà ngươi đều chiêm bao cả. Mà ta bảo nhà ngươi chiêm bao cũng là chiêm bao nốt! Lời nói ấy, tên nó là ... rất quái. Sau muôn đời may gặp một bậc đại thánh, biết được nghĩa nó, tức là gặp trong sớm, hôm vậy! 5. Đã cho ta biện bác cùng ngươi, ngươi được ta, ta không được ngươi, vậy ngươi đã hẳn là phải, mà ta đã hẳn là trái chăng? Ta được ngươi, ngươi không được ta, vậy ta đã hẳn là phải, mà ngươi đã quả là trái chăng? Hay hoặc khi phải, hoặc khi trái chăng? Hay cùng phải cả, cùng trái cả chăng? Ta cùng ngươi không thể biết được nhau? Vậy con người ta vốn chịu cái tối tăm đó, mà ta nhờ ai quyết định điều đó? Nhờ kẻ đồng với ngươi quyết định điều đó, nó đã đồng với ngươi, có sao quyết định được? Nhờ kẻ đồng với ta quyết định điều đó, nó đã đồng với ta, có sao quyết định được? Nhờ kẻ khác với ta cùng ngươi quyết định điều đó, nó đã khác với ta cùng ngươi, có sao quyết định được? Nhờ kẻ đồng với ta cùng ngươi quyết định điều đó, nó đã đồng với ta cùng ngươi, có sao quyết định được? Vậy thì ta cùng ngươi, cùng người đều không thể biết được nhau, mà còn đợi kẻ kia sao? 6. Sự đợi nhau của các tiếng biến hóa, cũng như nó, không đợi nhau. Đem "hòa khí của trời" (thiên nghê) mà hòa nó; đem lần lữa mà nhân nó, thế cho hết năm! Đem hòa khí của trời mà hòa nó là thế nào? Thưa: Phải, chẳng phải; thế, chẳng thế: phải nếu quả là phải, thì chỗ phải khác với không phải, cũng không cần phân biệt. Thế nếu quả là thế, thì chỗ thế khác với chẳng thế, cũng không cần phân biệt. Quên năm, quên nghĩa, nghỉ ở cõi vô cùng cho nên gửi vào cõi vô cùng. |
齊物論 | Tề vật luận (X) |
1.
Bóng bóng (24) hỏi bóng rằng: — Ban nãy mi đi, giờ mi đứng; ban nãy mi ngồi, giờ mi dậy; sao mi không có tính nết riêng vậy? 2. Bóng đáp: — Ta là kẻ có đợi mà thế chăng? Cái ta đợi lại là kẻ có đợi mà thế chăng? Ta đợi, cựa của rắn, cánh của ve chăng? Nào biết sở dĩ thế. Nào biết sở dĩ không thế? |
齊物論 | Tề vật luận (XI) |
Xưa kia Trang Chu chiêm bao ra bươm bướm, phấp phới là bươm bướm thật! Tự thấy thích chí chăng, chẳng biết đến Chu nữa. Thoắt mà thức dậy, thì thù lù là Chu. Không biết Chu chiêm bao làm bướm chăng? Chu cùng bướm thì tất là có phân biệt rồi. Ấy thế gọi là "vật hóa".
|
ed. 2023-06-28
No comments:
Post a Comment