ghi chú * (của Nhượng Tống)
(*1) Tề vật luận: Bàn về lẽ các vật đều bằng nhau.
(*2) sáu hợp là trên, dưới, bốn bề.
(*3) dùng "chim sa, cá lặn" mà tả người đẹp, là theo điển này.
chú thích (hv-ebook)
(1) Tử Kì: nguyên văn Tử Kì 子綦. Bản dịch ghi là Tử Cơ.
(2) thờ thẫn: bản sách in là thơ thẩn (không hợp nghĩa).
(3) thờ thẫn như mất lứa đôi: nguyên văn tháp yên tự táng kì ngẫu 荅焉似喪其耦 thẫn thờ, ngơ ngác, hình dáng như kẻ mất hồn.
(4) chuyện tựa kỉ ngày nay...: người tựa kỉ bây giờ...
(5) Trí lớn nhàn nhàn! Trí nhỏ lan man: nguyên văn: Đại trí nhàn nhàn, tiểu trí gian gian 大知閑閑, 小知閒閒 "Biết lớn" (đại trí): biết một cách bao trùm, rộng rãi; "biết nhỏ" (tiểu trí): biết một cách chia lìa, vụn vặt.
(6) nguyên văn: Đại ngôn viêm viêm, tiểu ngôn chiêm chiêm 大言炎炎, 小言詹詹 "Lời lớn": cao xa, hay đẹp, sáng rõ; "lời nhỏ": lải nhải, rườm rà, luộm thuộm.
(7) Thần Vũ 神禹: tên tôn xưng vua Vũ 禹 nhà Hạ 夏. Mới đầu là bề tôi vua Thuấn 舜, nhờ có tài đức, có công trị lụt, được vua Thuấn truyền ngôi cho.
(8) tiếng chim học nói: nguyên văn cấu âm 鷇音 tiếng chim con.
(9) cốt đạo: nguyên văn Bỉ thị mạc đắc kì ngẫu, vị chi đạo xu 彼是莫得其偶, 謂之道樞 Đó và Đây không thành đôi đối đãi nhau, thế gọi là cốt tủy của Đạo.
(10) xin ghi riêng ra ở đây đoạn dịch không có trong bản Hán văn dùng tham khảo cho hv-ebook này (漢川草廬
http://www.sidneyluo.net/d/d.htm): Dong dã giả, dụng dã; dụng dã giả, thông dã; thông dã giả, đắc dã, thị đắc nhi ki hĩ 庸也者, 用也; 用也者, 通也; 通也者, 得也, 是得而幾矣 Thường tức là dùng. Dùng tức là thông. Thông tức là được. Vừa được là sắp sửa rồi (Nhượng Tống dịch). Theo học giả Nghiêm Linh Phong 嚴靈峰, người đời sau đã thêm hai mươi chữ Hán này vào văn bản cổ.
(11) Chiêu Văn 昭文: người xưa giỏi đánh đàn.
(12) Sư Khoáng 師曠: một nhạc công thời xưa, rất sành âm luật.
(13) Huệ Tử 惠子: nhà biện luận thời xưa.
(14) "trắng, dắn": tức là lập luận kiên bạch 堅白 (cứng và trắng tách biệt) của Công Tôn Long 公孫龍 (320 trước CN - 250 trước CN).
(15) bản dịch của Nhượng Tống (trong sách in) ghi là: "Một với nó là hai. Hai với một là ba." Đây hẳn là một lỗi ấn loát. Nguyên văn của câu này là: Nhất dữ ngôn vi nhị, nhị dữ nhất vi tam 一與言為二, 二與一為三 Một với nói là hai. Hai với một là ba.
(16) nhân thường mà không nên: tức là dịch theo câu Hán văn nhân thường nhi bất thành 仁常而不成. Ghi chú: Nguyễn Duy Cần dịch câu này như sau: "nhân mà thường thì không nên việc" (xem quyển II, trang 215). Câu chữ Hán này là một bản khác với nguyên văn dùng làm gốc trong blog này: nhân thường nhi bất chu 仁常而不周 nghĩa là: nhân thường mà không khắp cả.
(17) ngoảnh mặt sang Nam: nghĩa là: "lâm triều, vua ra triều đình".
(18) nhái: nguyên văn chữ Hán thu 鰌 cá chạch.
(19) cỗ bàn: nguyên văn sô hoạn 芻豢; sô: loài thú ăn cỏ, hoạn: gia súc (dê, bò, chó, lợn...). Nói chung: thịt thà, cỗ bàn.
(20) Mao Tường 毛嬙, Lệ Cơ 麗姬: tên những người đẹp thời xưa. Ghi chú: Bản chữ Hán ở đây ghi Tây Thi 西施 (thay vì Lệ Cơ).
(21) Cù Thước: nguyên văn Cù Thước 瞿鵲. Bản dịch ghi là Cồ Tước.
(22) thấy trứng: nguyên văn kiến noãn 見卵. Sách in ghi sai thành "thấy trúng".
(23) len lén: nguyên văn thiết thiết 竊竊 (ở đây có người hiểu là:) rõ rệt, rành rành. Cả câu này: Nhi ngu giả tự dĩ vi giác, thiết thiết nhiên tri chi. Quân hồ, mục hồ, cố tai! 而愚者自以為覺, 竊竊然知之. 君乎, 牧乎, 固哉! Nguyễn Duy Cần (cuốn II, trang 237) dịch như sau: Nhưng kẻ ngu lại tự cho là họ tỉnh, rồi họ cũng tin thật rằng họ là bậc vua chúa, hay họ là kẻ chăn ngựa! Gàn thay!
(24) bóng bóng: nguyên văn võng lượng 罔兩 cái bóng mờ mờ ở chung quanh cái bóng thực.
(11) Chiêu Văn 昭文: người xưa giỏi đánh đàn.
(12) Sư Khoáng 師曠: một nhạc công thời xưa, rất sành âm luật.
(13) Huệ Tử 惠子: nhà biện luận thời xưa.
(14) "trắng, dắn": tức là lập luận kiên bạch 堅白 (cứng và trắng tách biệt) của Công Tôn Long 公孫龍 (320 trước CN - 250 trước CN).
(15) bản dịch của Nhượng Tống (trong sách in) ghi là: "Một với nó là hai. Hai với một là ba." Đây hẳn là một lỗi ấn loát. Nguyên văn của câu này là: Nhất dữ ngôn vi nhị, nhị dữ nhất vi tam 一與言為二, 二與一為三 Một với nói là hai. Hai với một là ba.
(16) nhân thường mà không nên: tức là dịch theo câu Hán văn nhân thường nhi bất thành 仁常而不成. Ghi chú: Nguyễn Duy Cần dịch câu này như sau: "nhân mà thường thì không nên việc" (xem quyển II, trang 215). Câu chữ Hán này là một bản khác với nguyên văn dùng làm gốc trong blog này: nhân thường nhi bất chu 仁常而不周 nghĩa là: nhân thường mà không khắp cả.
(17) ngoảnh mặt sang Nam: nghĩa là: "lâm triều, vua ra triều đình".
(18) nhái: nguyên văn chữ Hán thu 鰌 cá chạch.
(19) cỗ bàn: nguyên văn sô hoạn 芻豢; sô: loài thú ăn cỏ, hoạn: gia súc (dê, bò, chó, lợn...). Nói chung: thịt thà, cỗ bàn.
(20) Mao Tường 毛嬙, Lệ Cơ 麗姬: tên những người đẹp thời xưa. Ghi chú: Bản chữ Hán ở đây ghi Tây Thi 西施 (thay vì Lệ Cơ).
(21) Cù Thước: nguyên văn Cù Thước 瞿鵲. Bản dịch ghi là Cồ Tước.
(22) thấy trứng: nguyên văn kiến noãn 見卵. Sách in ghi sai thành "thấy trúng".
(23) len lén: nguyên văn thiết thiết 竊竊 (ở đây có người hiểu là:) rõ rệt, rành rành. Cả câu này: Nhi ngu giả tự dĩ vi giác, thiết thiết nhiên tri chi. Quân hồ, mục hồ, cố tai! 而愚者自以為覺, 竊竊然知之. 君乎, 牧乎, 固哉! Nguyễn Duy Cần (cuốn II, trang 237) dịch như sau: Nhưng kẻ ngu lại tự cho là họ tỉnh, rồi họ cũng tin thật rằng họ là bậc vua chúa, hay họ là kẻ chăn ngựa! Gàn thay!
(24) bóng bóng: nguyên văn võng lượng 罔兩 cái bóng mờ mờ ở chung quanh cái bóng thực.
rất hay đó bạn ơi
ReplyDeletehạt điều rang muối